Thông tin thị trường

Có rất nhiều ý kiến khẳng định ngành thép Việt Nam phát triển... ngược với quy luật khi công nghiệp cán... có trước công nghiệp luyện. Và ngay trong công nghiệp luyện, các lò luyện với công suất nhỏ, sử dụng công nghệ lạc hậu, nguyên liệu chủ yếu là phế liệu lại phát triển rầm rộ hơn hẳn loại công nghệ "chính quy", hiện đại: luyện thép từ quặng với quy mô lớn, cho sản phẩm giá thành rẻ. Thậm chí, có ý kiến cảnh báo về nguy cơ Việt Nam trở thành "bãi rác" công nghệ, thiết bị sản xuất thép. Và cũng có không ít bài báo chứng minh cụ thể sự ô nhiễm, lãng phí gây ra bởi việc sử dụng công nghệ lạc hậu trong sản xuất thép... tại các địa phương trong cả nước.

Phát triển đúng quy luật cung - cầu

Nhưng cũng lại là thực tế rất... đáng mừng: chính những nhà sản xuất với công nghệ lạc hậu này lại đang sản xuất, cung ứng sản lượng đáng kể phôi thép cho nền kinh tế. Nhiều năm qua, nhu cầu thép của Việt Nam đều tăng ở mức hai con số mỗi năm. Tương ứng với mức tăng ấy, sản lượng phôi thép do các doanh nghiệp trong nước sản xuất cũng tăng mạnh qua từng năm, và năm 2007 đã đáp ứng 40% nhu cầu phôi thép toàn ngành. Dự báo năm 2008, nhu cầu thép Việt Nam tăng tới 17-20% so với năm 2007. Tuy nhiên, phôi thép sản xuất trong nước vẫn tăng trưởng và sẽ đáp ứng 50% nhu cầu phôi cho sản xuất thép trong nước (2/4,5 triệu tấn). Đó là kết quả mà ngành thép Việt Nam - suốt lịch sử phát triển vài chục năm trước đó - chưa từng đạt được.

Điều đó có nghĩa, ngành thép Việt Nam thực tế vẫn đang phát triển rất... đúng quy luật cung - cầu. Nét "dị biệt", là sự phát triển ấy diễn ra không hoàn toàn đúng với định hướng của chính sách quản lý. Nguyên nhân bắt nguồn từ những khác biệt trong quan niệm của nhà quản lý và doanh nghiệp về định hướng "đi tắt, đón đầu" trong phát triển ngành thép. Nhà quản lý muốn ngành thép "đi tắt, đón đầu" về công nghệ sản xuất hiện đại, để vừa đảm bảo phát triển trong vài chục năm tới, lại vừa bảo vệ môi trường. Ngược lại, "đi tắt, đón đầu" với doanh nghiệp trước tiên là phải đầu tư nhà máy sản xuất để khai thác, giành lại và thu lợi từ thị trường phôi thép trong nước vốn đang phụ thuộc nhập khẩu. Lựa chọn của doanh nghiệp đã phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội rất lớn. Vì Việt Nam đã có khả năng đáp ứng 50% nhu cầu phôi cho sản xuất thép trong nước. Và giá phôi trong nước sản xuất đang rẻ hơn từ 40 - 50 USD so với phôi nhập khẩu. Trong khi đó thì chưa có dự án "nhiều tỷ" USD với công nghệ sản xuất thép hiện đại, bảo vệ môi trường được đưa vào sản xuất tại Việt Nam.

Lấy lại thị trường đã mất

Trước đây, nguyên liệu chính để sản xuất thép là gang - một sản phẩm có nguồn gốc từ quặng sắt được luyện trong lò cao. Do quặng sắt tại các mỏ thường không đồng nhất về chất lượng, hàm lượng, nên đã xuất hiện nhiều loại công nghệ như sản xuất sắt xốp, sắt lỏng, sắt cacbid... để cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp luyện thép. Tuy nhiên, đem lại nhiều hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi trường nhất là công nghệ lò điện sử dụng thép phế liệu để sản xuất thép. So sánh với công nghệ chế biến quặng sắt qua lò cao, thì công nghệ này tiết kiệm vốn đầu tư hơn hẳn. Các chỉ tiêu tiêu hao năng lượng, khoáng sản, ô nhiễm không khí, nước, phế thải... cũng thấp hơn trên 50% so với công nghệ truyền thống. Do vậy, đây chính là loại công nghệ phù hợp với đặc thù nền kinh tế và hiện được nhiều doanh nghiệp Việt Nam sử dụng.

Cần nhấn mạnh là, từ năm 1995, chủ trương xây dựng liên hiệp luyện thép có công suất từ 3-5 triệu tấn/năm đã thể hiện tại thông báo số 112/TƯ ngày 12/4/1995 của Bộ Chính trị. Ý tưởng phát triển thế mạnh sản xuất thép từ quặng với nguồn quặng sắt mỏ Quý Xa (Lào Cai) và các mỏ nhỏ tại Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn... nâng công suất của Cty Gang thép Thái Nguyên lên 1 - 1,5 triệu tấn/năm đã được đặt ra. Nhưng chủ trương, ý tưởng này đã không trở thành hiện thực vì những hạn chế đến từ nhận thức, vì thiếu vốn và vì thiếu cả các cơ chế khuyến khích cụ thể. Tính thiếu định hướng trong chính sách vĩ mô phát triển ngành thép đã dẫn tới kết quả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ tập trung phát triển công nghiệp cán. Chỉ tới khi bị thiệt hại do quá phụ thuộc nguồn phôi thép nhập khẩu bộc lộ, thì các doanh nghiệp mới rầm rộ chuyển sang các dự án sản xuất phôi trong vài năm gần đây.

Rất may là các doanh nghiệp Việt Nam đã rút ra kinh nghiệm từ việc phụ thuộc nguồn phôi nhập khẩu và chỉ phát triển công nghiệp cán thép xây dựng. Do vậy, các dự án đầu tư vào ngành thép đã... chuyên nghiệp hơn hẳn. Tiêu biểu là mô hình cụm công nghiệp (CCN) liên hợp luyện - cán thép của Cty CP thép Cửu Long - Vinashin. Sau 4 năm, doanh nghiệp này đã xây dựng và vận hành cụm 6 NM thép với công suất 1,2 triệu tấn/năm. Trong đó, có NM sản xuất thép tấm, NM sản xuất thép hình kỹ thuật, NM sản xuất khí công nghiệp lớn nhất lớn nhất Việt Nam. Nguyên liệu chủ yếu để sản xuất thép tại CCN này là thép phế liệu. Sản phẩm của CCN đều là các loại thép từ trước đến nay Việt Nam đều phải nhập khẩu. Có nghĩa là doanh nghiệp này đã đầu tư và thu lợi chính đáng trên mảng thị trường mà thép Trung Quốc chưa... với tới. Như vậy, Cty CP thép Cửu Long - Vinashin đã không chỉ lựa chọn mô hình đầu tư "vừa sức", mà còn góp phần đẩy trình độ phát triển toàn ngành thép lên tầm cao mới.

(DĐDN) 

 

SẢN PHẨM

 

LIÊN HỆ

 

map Số 193 Đinh Tiên Hoàng, Phường Đa Kao, Quận 1, TP.HCM
phone (028) 3829.4623 - (028) 3823.0078
fax (028) 3829 0403 - (028) 38275693
Untitled-3 Email: kimkhitp@metalhcm.com.vn